Các công ty châu Âu đang tiếp tục tìm kiếm giao dịch hoặc mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Ông Alain Cany, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), trao đổi về xu hướng của dòng vốn từ châu Âu vào Việt Nam trong thời gian gần đây.

Dòng vốn từ các doanh nghiệp châu Âu vào thị trường Việt Nam thời gian gần đây chuyển động như thế nào, thưa ông?

Tôi hài lòng khi quan hệ kinh tế giữa các nước thuộc Liên minh châu Âu và Việt Nam tiếp tục được tăng cường. Các công ty châu Âu không chỉ đẩy mạnh đầu tư một cách tổng thể vào Việt Nam, mà còn tập trung vào các dự án chất lượng cao, giúp Việt Nam trở thành thỏi nam châm thu hút đầu tư lớn tầm cỡ thế giới.

Việt Nam là một trong những thị trường sôi động, năng động nhất thế giới. Điều này được thể hiện trong Chỉ số Môi trường kinh doanh Việt Nam của chúng tôi – phong vũ biểu thường xuyên của các nhà đầu tư và lãnh đạo doanh nghiệp châu Âu. Trong quý I/2022, chỉ số này đạt 73 điểm phần trăm, tăng 12 điểm phần trăm so với quý IV/2021 và là mức cao nhất sau khi đại dịch bùng phát lần thứ tư ở Việt Nam. Tương tự, hơn 2/3 số doanh nghiệp châu Âu được hỏi đã cho rằng, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục được cải thiện trong quý II/2022, chứng tỏ các nhà đầu tư châu Âu đặt kỳ vọng rất lớn vào thị trường Việt Nam.

Sau khi các tập đoàn lớn như Samsung, LG xây dựng nhà máy tại Việt Nam, các gương mặt mới cũng sắp xuất hiện như Lego, Fuchs, Pandora. Các tập đoàn này nhận thấy lợi thế gì ở Việt Nam?

Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, tiếp cận với phía Đông và Đông Nam châu Á. Lực lượng lao động dồi dào và trẻ, chi phí lao động cạnh tranh.

Kỷ lục tăng trưởng của Việt Nam cũng đã được chứng minh với một hệ thống chính trị ổn định và các chính sách kinh tế nhằm hội nhập toàn cầu và cải thiện kinh tế – xã hội. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết với nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng kinh tế thế giới đang tiếp tục hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào các thị trường và chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời dần loại bỏ các nút thắt và rào cản thương mại.

Về mặt địa chính trị, xung đột thương mại Mỹ – Trung khiến Việt Nam trở thành một phần của chiến lược Trung Quốc + 1. Điều này thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Việc triển khai tiêm phòng vắc-xin nhanh chóng cho phép Việt Nam phát triển theo cách tiếp cận trước đây, trong khi Trung Quốc vẫn đang duy trì chiến lược zero covid. Những hạn chế do Trung Quốc gây ra đã làm trầm trọng thêm các vấn đề đứt gãy chuỗi cung ứng và phân phối, đồng thời nâng cao sự hấp dẫn của Việt Nam.

Làm thế nào để Việt Nam có thể thu hút các doanh nghiệp mới nổi vào thị trường, thưa ông?

Một vấn đề lớn đối với Việt Nam là năng lượng. Lưới điện của Việt Nam chưa được chuẩn bị để tăng công suất hỗ trợ việc hòa lưới đối với năng lượng tái tạo. Một cuộc đại tu hệ thống lưới điện sẽ đòi hỏi khoản kinh phí rất lớn và mất thời gian. Một sự chuyển đổi xanh với các sáng kiến ​​chia sẻ kiến ​​thức và công nghệ sẽ giúp tăng cường năng lực lưới điện và năng lực tái tạo nói chung.

Việt Nam cũng phải đẩy mạnh cải cách hành chính với việc cắt giảm các thủ tục hải quan dễ gây nhầm lẫn và các yêu cầu đăng ký công ty rườm rà. Điều này có thể được giải quyết bằng các quy trình và công nghệ kỹ thuật số sáng tạo để giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực và thời gian cần thiết để dành cho các hoạt động kinh doanh. Tăng cường tính minh bạch và dễ hiểu của khung pháp lý đầu tư của Việt Nam cũng sẽ giúp giải quyết các mâu thuẫn quốc gia và khu vực.

Cải thiện kết cấu hạ tầng nhằm thúc đẩy sự di chuyển của hàng hóa, nguyên vật liệu và con người. Lực lượng lao động của Việt Nam nhìn chung hiện không tập trung ở những vùng cần lao động nhất. Đây là một rủi ro phát triển rất lớn. Đầu tư vào hệ thống đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc, đường thủy nội địa… sẽ giúp giải quyết tình trạng thiếu lao động trong khu vực bằng cách kết nối các khu dân cư với các khu công nghiệp và tạo việc làm thuận lợi cho những người sống ngoài thành phố lớn.

Ngoài ra, Việt Nam phải tập trung thu hút doanh nghiệp phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của mình. Điều này đòi hỏi chất lượng đầu tư, chứ không chỉ là số lượng. Ví dụ, các nhà đầu tư lớn sẽ hỗ trợ chính phủ tăng giá điện để giúp đảm bảo nguồn cung cấp điện ổn định trong tương lai. Việc tăng giá điện có thể làm thiệt hại cho các nhà sản xuất quy mô nhỏ, chất lượng thấp, nhưng sẽ là lợi thế đối với các tập đoàn. Việt Nam cần nhiều hơn những nhà đầu tư có thể hiểu được thị trường này một cách tổng thể.

Theo: Báo đầu tư